Wednesday, November 20, 2013

Tài sản chung của vợ chồng được pháp luật quy định

Tài sản chung của vợ chồng được pháp luật quy định như thế nào?

Trả lời:
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 27, Luật Hôn nhân và gia đình như sau:
          - Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
                   + Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
                     + Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
          - Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
           - Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.


Vợ chồng ông Chính, bà Yến có một thửa đất ở ven quốc lộ 1A là tài sản chung do hai vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Thửa đất được đăng ký quyền sử dụng đất dưới tên ông Chính. Vì thua tiền đánh bạc nên ông Chính đã lập hợp đồng bán quyền sử dụng thửa đất này cho anh Minh. Bà Yến cho rằng việc mua bán này là trái pháp luật vì không được sự đồng ý của bà. Xin hỏi: theo quy định của pháp luật thì nhận định của bà Yến có đúng không? Bà Yến cần phải làm gì để giải quyết việc mua bán này?

Trả lời:
Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định của pháp luật.”

Nhằm hướng dẫn cụ thể về vấn đề này, Khoản 1 Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ quy định như sau:
          - Trong trường hợp việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc tài sản chung là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng tài sản đó đã đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức phát sinh là nguồn sống duy nhất của gia đình mà pháp luật quy định giao dịch đó phải tuân theo hình thức nhất định, thì sự thoả thuận của vợ chồng cũng phải tuân theo hình thức đó (lập thành văn bản có chữ ký của vợ, chồng hoặc phải có công chứng, chứng thực...)
           - Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không có quy định phải tuân theo hình thức nhất định, nhưng giao dịch đó có liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình hoặc giao dịch đó có liên quan đến việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng đã đưa vào sử dụng chung và hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó là nguồn sống duy nhất của gia đình, thì việc xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch đó cũng phải có sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng.

           Đồng thời, Khoản 4 của Điều này cũng quy định: Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà không có sự đồng ý của một bên, thì bên đó có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định tại Điều 139 của Bộ luật Dân sự và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật Dân sự.

          Trong trường hợp của ông Chính và bà Yến, vì quyền sử dụng đất là tài sản chung có giá trị lớn nên việc chuyển nhượng  quyền sử dụng đất phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Không những thế, theo quy định của pháp luật, sự đồng ý này phải được thỏa thuận bằng văn bản, có công chứng. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Chính cho anh Minh không đáp ứng điều kiện này nên vô hiệu. Bà Yến có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch chuyển nhượng trên là vô hiệu.

http://www.moj.gov.vn

No comments:

Post a Comment